THỊ TRƯỜNG LOGISTICS VIỆT NAM: Từ Góc Độ Nhà Cung Cấp Dịch Vụ Third-Party Logistics
(Duongminhvn.blogspot.com) - Thị
trường Logistics Việt Nam: từ góc độ nhà cung cấp dịch vụ Third-Party Logistics
Những
năm gần đây, ngành dịch vụ logistics đã thu hút được sự chú ý của các nhà làm luật,
các học giả cũng như nhà kinh doanh trong nước. Hoạt động logistics đã được đưa
vào Luật thương mại Việt Nam năm 2007. Khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), các nhà kinh doanh logistics bắt đầu “bàn về” những
thách thức của các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam trong thị trường logistics.
Dưới
cách nhìn của một nhà cung cấp dịch vụ third-party logistics (gọi tắt
là 3PL), bài viết này đề cập đến thị trường logistics Việt Nam qua
các nội dung: quy mô thị trường, tiềm năng phát triển và những vấn đề nổi bật vẫn
còn tồn tại trong thị trường.
Những
đặc điểm chính thị trường dịch vụ Third-party Logistics Việt Nam
Thị
trường logistics Việt
Nam, theo cách nhìn của nhà kinh doanh 3PL, có các đặc điểm chính sau:
Quy
mô thị trường nhỏ, nhưng có tốc độ tăng trưởng cao. Chí phí hoạt động logistics Việt Nam được
ước tính chiếm khoảng 15-20% tổng giá trị GDP(3), trong đó chủ yếu là giá trị
hàng tồn kho (inventories). Riêng thị trường dịch vụ third-party logistics được
dự đoán có tổng giá trị khoảng 1.4 tỷ USD năm 2007, chiếm khoảng 2% GDP, phần lớn
là dịch vụ vận chuyển. Mặc dù thị trường logistics có quy mô
tương đối nhỏ so với các nước Châu Á – Thái Bình Dương, nhưng được dự đoán có tốc
độ tăng trưởng trung bình khoảng 20% - 25% trong vòng 05 năm tới (4) và
đạt khoảng 3.2 tỷ USD vào năm 2011.
Hình
1: Quy mô thị trường tốc độ tăng trưởng logistics Việt Nam và thế giới năm 2007
Hình
2: Dự đoán thị trường logistics Việt
Nam năm 2007-2010
Thị
trường ngành bán lẻ - FMCG chiếm tỷ trọng cao, thị trường thiết bị ôtô và dược phẩm tiềm năng. Giá
trị thị trường logistics được
tạo ra chủ yếu từ bốn ngành gồm bán lẻ hàng tiêu dùng nhanh (retail - FMCG),
hàng thiết bị công nghệ cao (hi-tech), thiết bị ô tô (automotive), và dược phẩm
(pharmaceuticals). Mặc dù không có số liệu chính xác, song chúng tôi ước
đoán ngành hàng bán lẻ chiếm khoảng 90% giá trị thị trường logistics, đạt khoảng 1.26
tỷ USD, có tốc độ tăng trưởng trung bình 14.7%/năm.
Kế
đến là ngành hàng thiết bị công nghệ cao chiếm khoảng 6% giá trị, đạt 0.08 tỷ
USD với tốc độ tăng trưởng trung bình 5.7% /năm, còn lại là ngành thiết bị ô tô
và dược phẩm. Tuy nhiên, hai ngành này là những ngành tiềm năng cho thị trường logistics Việt Nam
trong tương lai với tốc độ tăng trưởng trên 10% / năm trong giai đoạn 2007-2011(5) .
Bảng
3: Phân khúc chính của thị trường logistics Việt Nam 2007
Nguồn:
Tổng hợp
Tăng
nhanh về bán lẻ và xuất khẩu thúc đẩy thị trường phát triển. Yếu tố chính
(key driver) để thúc đẩy thị trường logistics Việt Nam phát triển là sự tăng nhanh của thị
trường bán lẻ và hoạt động xuất nhập khẩu, với ước tính tốc độ tăng lần lượt là
14.7 % / năm và 17.5% / năm giai đoạn 2007-2011(6) . Một yếu tố nữa mang
tính khách quan là sự gia tăng của việc mua/thuê ngoài (outsourcing) của các tập
đoàn đa quốc gia kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức WTO.
Tuy
nhiên, thị trường logistics Việt
Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu của phát triển. Điều này thể hiện qua:
Cơ
sở hạ tầng cho hoạt động logistics kém
phát triển. Giống như Trung Quốc và Ấn Độ, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt
động logistics tại
Việt Nam được đánh giá là kém phát triển và không thể đáp ứng nhu cầu phát triển
thị trường. Tình trạng tắc nghẽn (congestion) cảng biển hai năm liên tiếp 2008
– 2009 là minh chứng thực tế cho sự yếu kém về cơ sở hạ tầng. Hơn thế nữa, Việt
Nam được đánh giá là rất yếu trong hoạch định và thực hiện chiến lược hệ thống
giao thông vận tải (Bảng 3), trong đó nổi cộm là hệ thống đường bộ, môi trường
chính sách cho hoạt động vận chuyển
trong đô thị và việc thực hiện chiến lược chung
Nguồn:
Transport Strategy, The World Bank in Vietnam, 2006
Về
hệ thống kho, thì hiện nay hơn 90% kho bãi thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Và
như một số bài báo phân tích, việc sử dụng các kho này không hiệu quả. Các kho
này chủ yếu vẫn được xây dựng ngang bằng với mặt đất (non high-dock) – đây là một
kiểu kho truyền thống và rất khó khăn để làm hàng được đóng trong container –
và rất khó mở rộng trong tương lai (Bảng 5). Các công ty logistics có vốn đầu
tư nước ngoài chủ yếu thuê lại và hoạt động dựa trên chiến lược “ít đầu tư vào
cơ sở hạ tầng” (asset-light)
Các
sản phẩm trong ngành là các sản phẩm cơ bản (vận chuyển, kho bãi), và thiếu những
sản phẩm mang giá trị gia tăng. Điều này cũng được thể hiện ở bài viết
phân tích thị trường Logistics Việt
Nam (Đỗ Huy Bình, 2005)(7) . Nếu chỉ cung cấp 2 dịch vụ cơ bản vận chuyển
và kho vận, mà thiếu hẳn các dịch vụ giá trị gia tăng thì có thể thấy rằng
ngành dịch vụ logistics ở
Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tức là vào những năm 70
của thế giới (Bảng 6), và chỉ dừng ở mức độ thực hiện (execution) trong quan hệ
khách hàng.
Bảng
5: Đánh giá một số kho mẫu trong quá trình lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ phân
phối của một công ty minh họa tại TP.HCM
Nguồn
: Tổng hợp năm 2007
Bảng
6 : Sự phát triển của Quản trị chuỗi cung ứng
Nguồn:
David Chew, Outsourcing Logistics:
Customer Perspective, 2006
Ngoài
ra, hiện nay trên thị trường dịch vụ logistics Việt Nam vẫn thiếu hẳn những nhà cung cấp dịch
vụ 3PL trọn gói thật sự (integrated logistics). Một số doanh nghiệp vận tải
Nhà nước như Vinatrans và Vietfratch chỉ cung cấp dịch vụ giao nhận đơn thuần,
như dịch vụ lưu kho và làm hàng (storages and handling). Còn các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài như Maersk, APL, TNT, Kuehne & Nagel… cũng chỉ
cung cấp một phần các sản phẩm dịch vụ riêng lẻ (Bảng 7).
Bảng
7: Mức độ quốc gia, dịch vụ và thị trường mục tiêu của các nhà cung
cấp dịch vụ 3PL nước ngoài tại Việt Nam năm 2007
Nguồn:
Tổng hợp 2007
Sự
cạnh tranh trên thị trường cao và cạnh tranh dựa trên giá cả. Hiện nay thị
trường Việt Nam có hơn 1.000 nhà cung cấp dịch vụ giao nhận và logistics, trong đó có khoảng
18% là công ty nhà nước, 70% là công ty tư nhân, 10% là không đăng ký và 2% là
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài(8) . Theo ước tính, mặc dù chỉ chiếm
2% tổng số doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
khoảng 30-35% thị phần của thị trường(9) .
Và
hơn 800 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3PL trong nước sẽ phải chia 60% - 65% thị
phần còn lại. Vì thế thị trường dịch vụ logistics tại Việt Nam rất phân tán (fragmented), điều
này dẫn đến mức độ cạnh tranh ngành rất cao. Hơn thế nữa, do áp lực
cạnh tranh và thiếu hẳn những dịch vụ giá trị gia tăng, giá trở
thành công cụ cạnh tranh chính của các doanh nghiệp giao nhận và logistics.
Trên
đây là một số đặc điểm của thị trường dịch vụ logistics Việt Nam. Vậy
các nhà kinh doanh 3PL cần quan tâm thế nào đến hoạt động cũng như chiến lược của
mình? Mời tham khảo một số gợi ý trong bảng sau:
Kết luận
Thị
trường logistics Việt
Nam vẫn ở giai đoạn đầu của phát triển. Tuy có quy mô nhỏ so với các nước trong
khu vực nhưng tốc độ tăng trưởng cao – một yếu tố chính trong việc thu hút sự
chú ý của các nhà kinh doanh 3PL trong nước cũng như ngoài nước.
Tuy nhiên thị trường vẫn tồn tại những vấn đề cần giải quyết. Nổi cộm nhất là vấn
đề cơ sở hạ tầng lạc hậu và chi phí kinh doanh không chính thức cao. Để giải
quyết điều này cần phải có tiếng nói chung giữa Chính phủ Việt Nam, khách hàng
sử dụng dịch vụ logistics và
cộng đồng doanh nghiệp logistics.
Bảng 8: Những đề nghị cho các nhà
kinh doanh 3PL tại Việt Nam
Nguồn: Theo
supplychaininsight.vn
CÔNG TY TNHH GIAO NHẬN VẬN TẢI QUỐC TẾ DƯƠNG MINH
Địa chỉ: 59 Trần Đình Xu,phường Cầu Kho, quận 1
Điện thoại: (08) 3837 1177
Email: hoa@duongminhvn.com
Địa chỉ: 59 Trần Đình Xu,phường Cầu Kho, quận 1
Điện thoại: (08) 3837 1177
Email: hoa@duongminhvn.com
THỊ TRƯỜNG LOGISTICS VIỆT NAM: Từ Góc Độ Nhà Cung Cấp Dịch Vụ Third-Party Logistics
Reviewed by Unknown
on
19:56
Rating:
Post a Comment